PHẢ ĐỒ

Người xưa chưa có quan niệm hệ thống hóa thứ tự bằng những con số cho nên chỉ áp dụng phân loại chi nhánh họ theo hệ can chi. Do quen dùng can, chi để tính năm, tính tuổi, người xưa đã áp dụng qua chi nhánh họ để phân loại trưởng thứ như: Chi Giáp là danh hiệu cho con Trưởng và dòng con cháu về sau; Chi Ất là danh hiệu cho con thứ hai và dòng con cháu; Chi Bính con thứ ba…; Chi Đinh con thứ tư… Chi Mậu con thứ năm…

Cho đến nay chưa có một điển chế thống nhất việc phân chia các cấp sinh hạ trong dòng tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã dựa nguyên lý “Thủy hữu nguyên, mộc hữu bổn” (nước có nguồn, cây có gốc) mà chia huyết thống sinh hạ thành các cấp: Chi (cành, nhánh cây); Phái (dòng nước, nhánh sông)…

Dòng họ: Là các thế hệ nối tiếp nhau nhiều đời, có cùng chung một nguồn gốc tổ tiên;

Chi họ: Là do ông Thủy tổ họ sinh ra và phân chia lần đầu thành các chi họ. Tuy nhiên, các chi họ có thể phân chia từ đời thứ hai, hoặc đời tiếp theo mới phân chia.

Phái họ: Là từ các chi họ tiếp tục phân chia ra thành nhiều phái. Có thể xem ông đầu phái họ là đời thứ 3 của dòng họ. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải được phân chia từ đời thứ 3, mà có thể đời thứ 4, hoặc đời tiếp theo mới phân phái.

Cành: Mỗi phái phân ra nhiều cành. Như vậy, con, cháu, chắt… của ông đầu phải là Thủy tổ của mỗi cành họ.

Nhánh: Là từ cành họ được phân chia ra nhiều nhánh, mỗi nhánh họ đều có nguồn gốc từ một cành, và mỗi cành đều có nhiều nhánh.

Chi nhánh: Là từ mỗi nhánh, tiếp tục phân chia ra nhiều chi nhánh; và còn tiếp tục phân chia thành nhiều nhóm,  có nơi còn gọi là dài.

Như vậy, khái niệm dòng họ, chi họ, phái, cành, nhánh, chi nhánh là thống nhất từ một nguồn gốc do ông Thủy tổ họ sinh ra và là đầu mối của các thế hệ trong một dòng họ thống nhất.

Hướng dẫn xem phả đồ

Nút xem toàn màn hình

Nhấn Ctrl+ Scroll chuột để phóng to thu nhỏ

Hướng dẫn xem phả đồ